Thích ứng với Biến đổi khí hậu: Giúp người dân từ mô hình sinh kế mới

8:13:0, 17/01/2014 Tìm ra những mô hình sinh kế cho người dân thích ứng với BĐKH là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, đặc biệt với người nghèo.

Đưa dự án BĐKH đến với người dân

Ba tỉnh giáp biển khu vực đồng bằng sông Hồng, Nam Định, Thái Bình và Hải Phòng được đánh giá là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Đây là những tỉnh ven biển thường xuyên lâm vào tình trạng ngập lụt, mất đất canh tác, xâm nhập mặn, hạn hán… đã ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, năng suất, thời vụ gieo trồng… Thời tiết cực đoan cũng làm thay đổi môi trường sống của các loài thuỷ sản, thu hẹp ngư trường và sản lượng đánh bắt và nuôi trồng.

Đánh giá mức độ ảnh hưởng của BĐKH, Quỹ phát triển Úc phối hợp cùng Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD) tổ chức thực hiện Dự án "Xây dựng quan hệ đối tác nhằm tăng cường khả năng thích ứng với Biến Đổi Khí Hậu của các Cộng đồng ven biển Việt Nam"- Dự án PRC thực hiện ở ba tỉnh này nhằm mục tiêu tăng cường khả năng phục hồi của người dân vùng ven biển bị tổn thương nhiều nhất trước tác động của biến đổi khí hậu.

Sau đánh giá tính dễ bị tổn thương có sự tham gia (PCVA), lựa chọn sinh kế thích ứng với BĐKH và thành lập các nhóm nghề sinh kế tại 5 xã của tỉnh Nam Định, 3 xã của tỉnh Thái Bình và 3 xã của Hải Phòng. Đến nay, đã có 977 hộ nông dân nghèo được dự án hỗ trợ triển khai các mô hình sinh kế thích ứng BĐKH như: trồng lúa, nuôi lợn nái Móng Cái, nuôi cá, nuôi gà Sao, đệm lót sinh học, nuôi cua trong rừng ngập mặn, trồng nấm thương phẩm. Đây là các mô hình được xem phù hợp với người dân ven biển. Với ưu điểm nguồn vốn ít, kỹ thuật nuôi trồng không quá khó khăn, người dân có thể tự thực hiện qua sự hỗ trợ về kỹ thuật của dự án thông qua các lớp tập huấn và kinh nghiệm vốn có của người dân.

Hiệu quả từ mô hình sinh kế mới

Mặc dù, dự án mới được thực hiện trong giai đoạn 1, nhưng kết quả bước đầu đã có những kết quả đáng mừng. Đến nay, đã có 390 hộ ở Thái Bình, Nam Định áp dụng giống lúa RVT cho vụ mùa 2013. Năng suất khá, trung bình đạt 1,4-1,5 tạ/sào, hộ cao nhất đạt 1,8 tạ/sào, thấp nhất: 1,1 tạ/sào đây là giống lúa có tính thích ứng rộng, chịu mặn tốt, cứng thân, có thể chống chịu tốt với các biến động về thời tiết, khí hậu gây ra mưa lớn ngập úng... Có 220 hộ ở Nam Định và Hải Phòng được hỗ trợ nuôi giống lợn Nái Móng Cái, đây là giống lợn dễ nuôi, đẻ sai, chịu được kham khổ, chống đỡ bệnh tật tốt, chịu được rét đậm hoặc nắng nóng. 34 hộ ở Thái Bình đã trồng nấm thành công, đã thu hoạch nhiều đợt, bước đầu sản xuất bán tại chỗ phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của người dân.

Hầu hết người dân rất phấn khởi khi dự án được triển khai, Chị Nguyễn Thị Thắm, xã Phù Long huyện Cát Hải, tỉnh Hải Phòng chia sẻ: “Từ ngày được dự án hỗ trợ nuôi giống gà Sao, gia đình tôi vui lắm, cả nhà có 1 con lợn Nái và đàn gà, tôi đã thực hiện đúng kỹ thuật mà dự án hướng dẫn, đến nay gà đã được gần 2 tháng, mỗi con nặng khoảng gần 1,5kg, số gà giống 60 con không bị chết một con nào. Tết sắp đến rồi, tôi sẽ có một đàn gà để bán”.

Cùng chung niềm phấn khởi như chị Thắm, chị Nguyễn Thị Mái, xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định cho hay: Nhà tôi được dự án hỗ trợ 1 con lợn Nái Móng Cái, đến nay đã được 3 tháng, trung bình mỗi tháng lợn tăng 20-25kg. Tôi còn nhớ, lúc mới nhận lợn về, nó rất sợ hãi và biếng ăn, nhờ việc áp dụng đúng kỹ thuật chăn nuôi mà dự án đã hỗ trợ lợn rất khỏe và lớn nhanh.

Ông Trần Văn Cảnh, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Giao Hải, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định cho biết: Sự nhiệt tình và cần cù của người dân cùng những hỗ trợ của dự án nên bước đầu đã có kết quả đáng mừng, cây trồng, vật nuôi đều phát triển tốt. Và điều quan trọng hơn, dự án đã giúp người dân nhận thức được rằng, đây không phải là chương trình xóa đói giảm nghèo mà là tăng cường năng lực cho người dân thích ứng với BĐKH. Qua đây, người dân sẽ hiểu và có cách thích nghi với điều kiện khí hậu ngày càng diễn biến khó lường.

Để những bước tiếp theo của dự án đạt được kết quả tốt, GS. TS Khoa học Trương Quang Học, Đại học Quốc Gia Hà Nội cho rằng: Những kết quả ban đầu của dự án có tính khả thi cao, là tiền đề cho các giai đoạn sau của dự án thực hiện tốt hơn. Hiện tại, các địa phương đang triển khai nhiều mô hình thích ứng, các giai đoạn sau của dự án nên có sự kết hợp hiệu quả giữa các mô hình này, để tận dụng được nguồn nguyên liệu và tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu của chúng. Có như vậy, hiệu quả của dự án sẽ được nâng cao, người dân sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc ứng phó với BĐKH.

Về chuyên mục

Về đầu trang